Thuyết Minh Món Gà Luộc / Top 6 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Jbth.edu.vn

Thuyết Minh Về Món Ăn: Thuyết Minh Về Phở Hà Nội

I. Dàn Ý Thuyết Minh Về Món Ăn : Thuyết Minh về Phở

Giới thiệu khái quát về phở – một món ăn truyền thống và phổ biến ở Việt Nam.

Nước dùng thường được hầm từ nhiều loại xương khác nhau như xương bò, xương lợn, gà,…

Để có một nồi nước dùng ngon, người nấu phở phải hầm xương từ tám đến mười giờ sau đó lọc qua rây để nước phở trong hơn.

Sau khi đã lọc xong, người ta cho các gia bị như nước mắm, bột ngọt, tiêu,… cùng các loại lộc như hành lá, mùi tàu,… để tăng thêm độ hấp dẫn cho món ăn

Khi nước dùng đã hoàn thành chúng ta chỉ cần cho nước dùng vào bánh phở là đã có thể có một tô phở thơm ngon, hấp dẫn để thưởng thức.

c, Vai trò, ý nghĩa của phở trong đời sống của người Việt Nam

Khẳng định vai trò, ý nghĩa của phở đối với con người và nêu cảm nghĩ của bản thân về món ăn này.

II. Bài Viết Thuyết Minh Về Một Món Ăn : Phở Hà Nội

1, Mở bài thuyết minh về phở Hà Nội

Mỗi quốc gia, mỗi đất nước trên thế giới đều có những món ăn với nét độc đáo, hấp dẫn riêng và mỗi món ăn ấy luôn mang trên mình những đặc trưng riêng về đất nước của nó. Nếu nhắc đến Hàn Quốc người ta nhớ tới kim chi, tới Nhật Bản mọi người nhớ tới sushi, nhắc tới cà ri người ta sẽ nhớ ngay tới đất nước Ấn Độ thì mỗi khi nhớ về ẩm thực Việt Nam, chắc hẳn sẽ không thể không nhắc tới món ăn truyền thống, phổ biến khắp mọi miền của đất nước, đó chính là phở.

2, Thân bài thuyết minh món phở Hà Nội

Như chúng ta đã biết, phở là một trong số những món ăn truyền thống, phổ biến nhất ở Việt Nam từ xưa đến nay song có lẽ không ai biết chính xác nó ra đời vào khoảng thời gian nào. Tuy nhiên, đi sâu khám phá về nguồn gốc và sự ra đời của món ăn đặc biệt này, chúng ta có thể tìm thấy nhiều nguồn tài liệu cho thấy rằng phở ở nước ta hiện nay có nguồn gốc từ một món ăn của Trung Quốc có tên gọi theo âm Hán Việt là ngưu nhục phấn. Phở ở Việt Nam ra đời và định hình vào những năm đầu của thế kỉ XX và xuất hiện đầu tiên ở Nam Định và Hà Nội. Cho đến ngày nay, phở đã và đang trở thành món ăn phổ biến ở hầu khắp mọi nơi trên cả nước nhưng có thể nói Nam Định và Hà Nội là những mảnh đất có hương vị phở nổi tiếng, đậm đà và hấp dẫn nhất.

Phở là món ăn quen thuộc, phổ biến ở Việt Nam, bởi vậy, những nguyên liệu cần thiết để nấu phở cũng rất dễ tìm kiếm. Nhắc đến phở, người ta sẽ nhớ ngay tới bánh phở và nước dùng. Để có một món phở ngon điều quan trọng trước hết là phải có được bánh phở ngon, điều đó có nghĩa là bánh phở phải vừa mềm vừa dai để khi ăn không có cảm giác bị bục hay quá nhão. Người ta thường là bánh phở từ loại gạo tẻ trắng, thơm, điều đó góp phần gợi nên nét dân dã mà không kém phần hấp dẫn của món ăn này. Thêm vào đó, nước dùng chính là phần quan trọng không thể thiếu để tạo nên một món phở ngon. Nước dùng thường được hầm từ nhiều loại xương khác nhau như xương bò, xương lợn, gà,… tùy vào món phở mà người đầu bếp muốn chế biến. Để có một nồi nước dùng ngon, người nấu phở phải hầm xương từ tám đến mười giờ sau đó lọc qua rây để nước phở trong hơn. Sau khi đã lọc xong, người ta cho các gia bị như nước mắm, bột ngọt, tiêu,… cùng các loại lộc như hành lá, mùi tàu,… để tăng thêm độ hấp dẫn cho món ăn. Khi nước dùng đã hoàn thành chúng ta chỉ cần cho nước dùng vào bánh phở là đã có thể có một tô phở thơm ngon, hấp dẫn để thưởng thức.

Đặc biệt, cách thưởng thức phở cũng rất quan trọng và có lẽ bởi vậy có nhiều người gọi đó là “nghệ thuật thưởng thức phở’. Nhắc đến “nghệ thuật thưởng thức phở” ông cha ta từ ngàn đời xưa đã có câu:

Quả đúng như câu ca trên, để tăng thêm hương vị, sự hấp dẫn, đậm đà cho món ăn, khi ăn phở người ta thường cho thêm chanh hoặc quất hay một ít dấm. Đồng thời, người ta vẫn thường ăn kèm phở với giá đỗ, rau sống và tỏi ngâm. Tất cả những hương vị ấy sẽ góp phần làm cho món phở thêm thơm ngon, hấp dẫn. Nếu chúng ta thiếu đi bất cứ nguyên liệu nào thì rất khó để có thể cảm nhận hết được hương vị của món ăn này. Thêm vào đó, tùy thuộc vào đặc điểm của mỗi vùng miền và sở thích ăn uống của mỗi người mà chúng ta có thể thêm vào một số gia vị để phù hợp hơn.

Phở là món ăn bình dị, phổ biến và quen thuộc với tất cả chúng ta song nó lại có vai trò, ý nghĩa to lớn trong đời sống của những người con đất Việt. Trước hết, phở là món ăn tổng hòa từ nhiều nguồn nguyên liệu khác nhau nên chúng cung cấp cho con người nhiều chất dinh dưỡng như canxi, các loại khoáng chất, các loại vitamin,… Thêm vào đó, phở cũng mang lại giá trị kinh tế lớn cho con người bởi lẽ mỗi tô phở có giá thành giao động từ 20.000 đến 25.000 đồng thậm chí có nhiều nơi là 50.000, 60.000 hay 100.000 đồng. Đồng thời, phở là món ăn ở vị trí “linh hồn” của ẩm thực Việt Nam, là một trong số những món ăn hấp dẫn trên thế giới. Và chắc có lẽ bởi vậy, du khách nước ngoài khi về thăm đất nước Việt Nam bao giờ cũng thường thức món ăn đặc biệt này. Không dừng lại ở đó, phở còn là món ăn xuất hiện nhiều trong các sáng tác văn học và nhạc họa từ xưa đến nay như thơ của Tú Xương, văn của Thạch Lam,…

Tóm lại, phở là một món ăn truyền thống và có giá trị đặc biệt trong ẩm thực của Việt Nam và ngày càng định hình được vị trí của nó trong nền ẩm thực của thế giới bởi nó mang trong mình cái nét đẹp của hồn quê Việt trong những sợi phở mềm dai và cái ngọt ngào, đằm thắm của nước dùng.

Từ khóa tìm kiếm nhiều :

dàn ý thuyết minh về món ăn

thuyết minh về món phở

thuyết minh về phở hà nội

thuyết minh về một món ăn

thuyết minh về 1 món ăn

dàn ý thuyết minh về món ăn lớp 8

dàn ý thuyết minh về một món ăn

Bình Luận Facebook

.

Thuyết Minh Về Con Gà (Bài Mẫu Hay)

Gà là giống rất đặc biệt vì các giống vật khác đều có hai loại là đực và cái; riêng đối với gà, người Việt ta gọi con gà đực là gà trống hay gà sống và gọi con gà cái gà mái. Gà trống thì ít mà gà mái thì nhiều. Gà trống trông oai vệ và rất đẹp trai vì có lông dài mướt, óng ả, và nhiều màu sắc. Thêm vào đó, gà trống còn có cái mào đỏ chói trên đầu, có đuôi dài và xòe rộng, có cái bầu diều hay diều gà ở cổ (diều là cái bíu hay cái bọc chứa đồ ăn ở ngay dưới cổ của một vài loại chim), và có cựa gà ở mỗi chân. Chính nhờ đôi cựa gà này mà loại gà trống được nổi tiếng qua việc chọi gà trong dân gian.

Gà Trống còn có một điểm rất đặc biệt khiến người dân Việt ở thôn quê coi gà trống giống như cái đồng hồ vì tiếng gáy “o! o!” của gà trống rất đúng giờ, nhất là “gà đà gáy sáng trời vừa rạng đông” (câu thơ số 3216 trong Truyện Kiều của Nguyễn Du). Tại rất nhiều làng thôn ở quê người Việt chúng ta, dân quê vẫn nhờ tiếng gà gáy, nhìn ánh nắng, nhìn mặt trăng để ước lượng thời gian. Chính vì thế mà gà trống lúc đầu được nuôi để làm vật tôn thờ vì nó biết gáy sáng. Tuy rằng gà trống là loại đa thê, dê xồm, và kiêu ngạo nhưng đó là điều rất nhỏ nếu so sánh với 5 điều rất lớn và đáng ca ngợi của nó. Đó là 5 đức tính lớn: văn, võ, dũng, nhân, và tín. Lý do là đầu gà trống có mào hay mồng giống như đội mũ, đó là văn; chân gà trống có cựa sắc bén như gươm giáo, đó là võ; thấy quân thù, gà trống liền xông vào đá và mổ, đó là dũng; khi kiếm được đồ ăn gà trống bèn gọi bạn bè, gà mái, và gà con đến ăn, đó là nhân; và ban đêm tới giờ sáng, gà trống gáy cầm canh đúng giờ, đó là tín.

Gà mái thì có vẻ nhã nhặn và khiêm nhường. Lông của gà mái thì màu vàng và lấm-tấm đen. Dầu gà mái cũng có mào gà màu đỏ nhưng rất nhỏ. Gà mái có đuôi ngắn hơn gà trống và không có bầu diều ở cổ. Gà mái gáy “cục cục, cục ta cục tác,” gà con thì kêu “chíp chíp chíp.” Gà mái rất bận rộn vì phải tìm đồ ăn, đẻ trứng, ấp trứng, và săn sóc gà con. Chỉ có gà mái trông nuôi đàn con còn gà trống thì không để ý đến. Mỗi sáng, gà mái lấy mỏ rỉa lông làm dáng.

Gà là giống vật có hai chân, có hai cánh, và có lông vũ che phủ toàn thân như các loài chim. Mắt gà thì tròn, nhỏ như hạt đậu đen, và không có lông mi. Hai mắt của đầu gà không nằm cùng trên một mặt ở gần trán như mắt người hay mắt chó mà mỗi con mắt của gà lại nằm riêng rẽ ở phía trên mỗi bên má. Chính vì thế mà khi nhìn, gà thường lắc đầu bên này qua bên kia và bước lên theo hình chữ chi (z). Gà không có vành tai, nhĩ quản của gà rất ngắn và được bảo vệ bằng lông và một miếng da. Tuy thế, thính giác của gà thật hữu hiệu đặc biệt để tránh các cầm thú săn đuổi. Khi gặp nhiệt độ cao và nóng, gà thường há rộng mỏ, thở gấp rút, duỗi cánh, và uống nước cho mát. Tuy có hai cánh nhưng khả năng bay của gà không được tốt như các loài chim khác. Mỗi chân gà có bốn ngón với móng chân rất sắc và nhọn dùng vào việc đào đất, bới đất, và cào cỏ để tìm đồ ăn. Mỏ gà rất cứng và nhọn. Trong mồm gà không có răng. Gà rất dễ tính về việc ăn uống. Gà thích ăn thóc, gạo, rau, cỏ, trái cây, con dế, con gián, con cào cào, con châu chấu, con mối, và con giun. Gà rất ham ăn vặt nên suốt từ buổi sáng đến tận buổi tối gà thường chăm chỉ và tha thẩn đi tìm thức ăn.

Gà rất điều độ về việc thức ngủ, khi vừa mới tối, gà đã rủ nhau về chuồng đi ngủ; khi bắt đầu sáng, đàn gà đã thức giấc và gà trống thì gáy o! o! Gà chỉ ngủ theo cùng đàn ở nơi quen thuộc và an toàn. Gà sợ nhất rắn hổ-mang và mùi của củ hành hay lá hành. Vì thế mà gà có đời sống rất thoải mái.

Ở Việt Nam, có nhiều vùng chuyên nuôi gà mái để gà mái đẻ ra nhiều trứng rồi cho ấp ra gà con mà nuôi; sau đó, khi cần thì người ta giết gà để ăn thịt. Nhiều người nuôi gà đã có kinh nghiệm chỉ nhìn quả trứng là biết trứng đó sẽ nở ra gà trống hay gà mái. Nếu một đầu quả trứng gà mà nhọn thì bảo đảm sẽ nở ra gà trống và nếu quả trứng nào tròn trịa, tức là quả trứng đó không có đầu nào nhọn thì sẽ nở ra gà mái. Có nhiều gia đình nuôi gà chỉ để gà đẻ trứng rồi dùng trứng gà để làm đồ ăn. Sau khi gà đẻ trứng rồi, người ta lấy trứng đem ấp trong lò ấp nhân tạo rất tiện lợi. Sau khi ấp trứng gà được vài ngày thì trứng đó được gọi là “trứng gà lộn.” Trứng gà lộn này rất được những người nghiện rượu ưa thích dùng làm đồ ăn để nhậu rượu. Thường thường người dân Việt hay ăn “hột vịt lộn” chứ không ăn “trứng gà lộn.” Tuy nhiên vẫn có một số trong những người nghiện rượu thích ăn “trứng gà lộn.”

Nhiều người nuôi gà để ăn thịt. Với thịt gà, người ta có thể làm được nhiều món ăn ngon như: gỏi gà, gà quay, gà kho sả, gà luộc, gà nướng lá chanh, gà hấp muối, gà hầm thập cẩm, gà rim nước dừa, gà nấu tiêu, gà chưng cách thủy, gà tiềm, phở gà, miến gà, bún gà, mì gà, hủ tiếu gà, gà rút xương bỏ lò, và gà nhồi thập cẩm, v.v. Vào ngày Tết ta, dân Việt rất thích ăn xôi với thịt gà và tổ chức chọi gà để được hưởng vui thú. Gà ở quê ta rất ngon, nhất là vào tháng tám ta vì đã được chứng thực bằng câu tục ngữ “ếch tháng ba, gà tháng tám.” Tháng tám ta là tháng gặt lúa nên gà tha hồ ăn lúa mới; vì thế, thịt gà rất ngon.

Người ta còn nuôi gà để làm đồ cúng bái trong dịp Tết, giỗ gia tiên, và dùng con gà giò còn sống để cúng lễ mở cửa mả. Người ta dùng con gà trống lớn để cúng thần linh khi người dân muốn làm lễ thề thốt. “Gà, xôi, trầu, và rượu” là 4 lễ vật tối thiểu để cúng thần thánh.

Người Việt ta còn dùng gà để bói (kê bốc). Người ta dùng gan gà, đầu gà, mật gà, phổi gà, xương gà, và trứng gà để bói. Tùy theo mỗi nơi người ta ấn định thế nào là tốt và thế nào là xấu trước khi giết gà đem lễ để bói. Thêm vào đó, người ta còn dùng tiếng gáy của gà để bói nữa. Thường thường gà gáy sáng thì tốt và gáy vào buổi chiều thì xấu cho gia đình.

Thuyết Minh Về Món Canh Chua Cá Lóc

Thuyết minh về món canh chua cá lóc – Bài làm 1

Nền văn hóa của dân tộc Việt Nam ta từ lâu đời đã mang tính “thực vật – sông nước”, tính “thực vật – sông nước” được thể hiện trong các mặt của đời sống con người như ăn, ở, mặc, đi lại…Về mặt ẩm thực, ta có thấy các món ăn truyền thống của dân tộc đều gắn với các loài thực vật, hải sản như “canh rau muống”, “cà dầm tương”:

Anh đi anh nhớ quê nhà Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương (Ca dao)

Hay như món “tép kho” cũng là một món ăn đặc trưng của dân tộc ta từ xa xưa, ngày nay tính “thực vật – sông nước” vẫn được thể hiện rõ ràng và món canh chua cá lóc cũng được xếp vào một trong những món ăn ngon của nền ẩm thực Việt thể hiện được tính chất này.

Canh chua cá lóc là một món ăn vốn đã rất quen thuộc với người dân Việt Nam, đặc biệt là ở vùng miền tây Nam Bộ, món canh ngon tuyệt này có thể giúp xua tan đi mọi mệt mỏi trong những ngày hè nắng nóng và đem đến cảm giác ấm lòng vào những ngày mùa đông lạnh giá. Gọi là canh chua nhưng ngoài vị chua đặc trưng ra, món canh này có cả vị ngọt đậm đà nữa.

Có rất nhiều cách để nấu được món canh chua cá lóc tuyệt ngon chỉ cần chuẩn bị đủ nguyên liệu để món canh này ngon đúng vị của nó. Nguyên liệu để nấu món này gồm: nguyên liệu nằm ngay ở tên món ăn và quan trọng nhất đó là cá lóc (1con khoảng 700 – 800g); dứa hay có nơi còn gọi là quả thơm (1 phần 4 quả); đậu bắp hay còn gọi là mướp tây (5 quả); cà chua ( 2 quả); giá đỗ (100g); dọc mùng (2 nhánh); me chua chín (50g). Rau thơm để nấu canh chua gồm hành lá, rau ngổ. Gia vị của món này gồm hành khô, tỏi, muối, hạt nêm, bột ngọt, đường, bột ớt, hạt tiêu, nước mắm và dầu ăn. Có thể thấy khâu chuẩn bị nguyên liệu cũng khá là cầu kì để có được một món ăn ngon.

Khi đã xong khâu chuẩn bị, ta chuyển sang khâu sơ chế nguyên liệu. Đây là một khâu cũng rot quan trọng, nguyên liệu được sơ chế cẩn thận thì khi nấu mới ngon được. Đầu tiên ta làm sạch và băm nhuyễn hành khô và tỏi. Tiếp đó là cá lóc, ta làm sạch, thái lát, lấy dao khứa nhẹ trên mỗi lát cá để khi ướp với gia vị sẽ dễ thấm. Sau đó ướp cá với một nửa thìa hành tỏi đã được băm nhuyễn, 1 thìa hạt nêm, một nửa thìa nước mắm, nửa thìa bột ngọt, nửa thìa dầu ăn, nửa thìa hạt tiêu rồi để khoảng mười lăm đến hai mươi phút để cá ngấm gia vị. Với quả dứa và đậu bắp ta làm sạch, cắt thành lát dài. Cà chua rửa sạch bổ thành miếng nhỏ như miếng cau, dọc mùng ta tước vỏ, cắt mỏng, bóp qua với một chút muối sau đó rửa sạch và chần nhẹ qua nước sôi rồi để ráo. Đối với giá đỗ ta rửa sạch và để riêng để tránh lẫn với các nguyên liệu khác. Các loại rau thơm ta nhặt rửa sạch và thái nhỏ. Quả me chua chín ta bỏ hạt rồi ngâm nước ấm.

Khi đã sơ chế xong, ta thực hiện nấu món canh chua này. Trước hết, người nấu lấy một thìa hành tỏi đã băm nhuyễn phi thơm với dầu ăn và cho thêm nửa thìa bột ớt để tạo màu cho món ăn. Cho cá lóc đã được ướp gia vị vào đảo nhẹ sau đó cho nước vào để nấu canh, cho thêm nước me chua và dứa vào. Đợi đến khi nước sôi, ta dùng lấy thìa vớt hết bọt phía trên để nước canh được trong. Khi cá sắp chín tới, ta cho cà chua, đậu bắp, dọc mùng và giá đỗ vào, cho thêm một phần tư thìa muối, nửa thìa đường, nửa thìa hạt nêm, nửa thìa bột ngọt tùy thuộc vào khẩu vị mặn, nhạt của người ăn. Đợi đến khi cá chín, tắt bếp cho rau thơm và hạt tiêu vào, như vậy là đã hoàn thành xong món canh chua cá lóc thơm ngon rồi mà lại cực kì đơn giản, dễ làm, không yêu cầu tay nghề cao mà vẫn có thể làm được một món ăn tuyệt ngon cho gia đình.

Món canh chua ngon có vị ngọt đậm đà, cá vừa chín tới không bị chín quá và cũng không có mùi tanh. Màu sắc của món canh hấp dẫn và có mùi thơm đặc trưng. Đây là một món ăn rất bổ dưỡng làm phong phú thêm bữa ăn của gia đình lại vừa mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc Việt.

Một số người đã nhầm giữa “cá nóc” và “cá lóc” vì thế cho rằng loài cá này gây độc nhưng theo nghiên cứu của y học thì cá lóc là một loại cá không có độc tính, cá lóc có vị ngọt, thịt ít mỡ, giàu khoáng chất và vitamin được xem là thức ăn bổ dưỡng rất tốt cho sức khỏe có tác dụng thanh nhiệt, giải độc.có tác dụng bổ khí huyết và hỗ trợ chữa được nhiều chứng bệnh khác. Ngoài món canh chua cá lóc thì ta có thể chế biến được nhiều món khác từ loại cá này vừa là món ăn ngon vừa chữa được các bệnh như: mồ hôi trộm, sốt cao, viêm gan, vàng da…

Món canh chua cá lóc là một trong những món ăn ngon của dân tộc, mang đậm dấu ấn của quê hương. Món ăn như chất chứa tình cảm của người nấu dành riêng cho những ai yêu hương vị đặc trưng của quê hương mình, món ăn như một sợi dây níu giữ những ai xa quê về với quê hương đất Việt mình.

Thuyết minh về món canh chua cá lóc – Bài làm 2

Trên mâm cơm hàng ngày thường có ba món: món canh, món mặn, món xà0. Món canh thì rất phong phú, đa dạng như canh rau tập tàng, canh bí đỏ, canh cải nấu cá thác lác… Nhưng món canh ăn hoài không biết chán, có mặt thường xuyên trên mâm cơm của người Nam bộ là món canh chua.

Tương tự gỏi chua, canh chua là món có nước nhưng vẫn mang đù hương vị chua chua, ngòn ngọt, thơm thơm, rất dễ ăn.

Đi làm việc về, trời trưa nắng chang chang, được người thân nấu cho tô canh chua vừa miệng, còn gì thích hơn. Mùa đông trời lạnh, ăn canh chua ấm lòng.

Mùa Thu trời ui ui, ăn canh chua đỡ buồn. Có khách sang trọng đãi món canh chua cá bông lau, khách cũng thích. Gặp đứa bạn thân, nấu lẩu chua cá điêu hồng nó “ô kê” liền. Nuôi người thân già yếu, miệng mồm lạt lẽo khó ăn, nấu tô canh chua lươn cho ngọt, ăn được chén cơm, mau hết bệnh.

Tuy là món ăn hàng ngày nhưng muốn nấu ngon phải biết nêm nếm vừa miệng và rau đệm biết dùng đúng cách. Chẳng hạn, lâu lươn nấu với bắp chuối mới đúng diệu. Cá lóc, cá thác lác… nên có rau chút, cà bắp, thơm. Cá linh nấu với bỏng điên điển hay bông so đũa… Chất chua có thể là me vắt, me trái, lá giang, lá me, khế chua hoặc cơm mẻ… Chất chua muốn dịu thì phải có khóm, cà chua, lá giang có vị chua dịu hơn me. Cơm mẻ là cơm nguội để lên men, tạo nhiều vi sinh, chất lên men chua rất dịu, dùng nấu canh chua lươn, luộc thịt trâu, thịt chó,…

Rau bổi bỏ vào cũng phải theo thứ tự, lớp lang, rau nào lâu chín cho vào trước, có loại nấu lâu sẽ dai, mất ngon như rau nhút, kèo nèo… Có quá nhiều rau bổi đế nấu canh chua, mỗi món có hương vị riêng, có cách nấu riêng, tuỳ theo ý thích mà pha chế. Nông thôn thì có bắp chuối, chuối cây, bông điên điển, so đùa, kèo nèo, đọt choại, rau ngổ, rau muống, rau nhút… Ở chợ có giá sống, bạc hà, cà chua, khóm, rau muống,… Rau thƠm như ngò gai, rau om, rau quế góp phần làm cho nồi canh chua có mùi thơm rất riêng, rất hấp dẫn.

Món lẩu chua để đãi khách nấu khá công phu. Phải lấy nước ngọt từ xương heo, xương gà để làm nước súp, sau đó luộc cá điêu hồng hay cá bông lau cho chín rồi vớt ra, nếu dùng hải sản thì tôm, mực tươi, cá thác lác vò viên xếp sẵn trên đĩa, ăn tới đâu nhúng tới đó. Rau bổi cũng vậy, không để sôi lâu vừa mất chất, vừa mất ngon, thỉnh thoảng bỏ vào lẩu hành phi, ớt và rau thơm dể giữ vị thơm của món ăn. Nước lẩu pha cho đúng vị chua, ngọt (không chua quá mà cũng không ngọt quá, ngược lại, pha lơ lớ ăn rất chán, không ra mùi vị gì cả).

Ở miền Tây, khi trời vừa sa mưa là mùa của cá linh, lâu chua cá linh bông điên điển là món ăn khoái khẩu nhất. Cả nhà xúm xít quanh cái lẩu bốc hơi nóng, nước lẩu được các bà nội trợ pha chế độ chua ngọt rất vừa miệng, rồi thì rổ rau đồng gồm bông điên điển, kèo nèo, rau muống… được nhúng vào cùng với những con cá linh trang phau, mềm ụm, béo ngậy. Chẳng mấy chốc mà rổ rau vơi dần và nồi cơm gạo mới cùng cạn đáy.

Lẩu chua ăn với bún, canh chua ăn với cơm, canh chua thường kèm với món cá rô kho tộ, nếu không có cá kho tộ thì ăn với tép rang thịt ba rọi cũng được. Vừa qua, có cuộc thi đầu bếp giỏi do các nhà hàng lớn trong thành phố tổ chức, món canh chua bông điên điên đã đứng đầu bảng. Thế mới biết, món ăn đứng hàng “top ten” không phải “nem công, chả phụng” mà có khi chi là những món ăn quen thuộc hàng ngày.

Thuyết minh về món canh chua cá lóc – Bài làm 3

Việt Nam là một đất nước nhỏ nhưng vô cùng tươi đẹp với bao truyền thống dựng nước, giữ nước; với những phong tục tập quán đặc sắc, bản sắc dân tộc độc đáo được hình thành qua hàng nghìn năm lịch sử; âm nhạc mang phong cách dân tộc độc đáo. Ngoài ra, một trong những đặc trưng của dân tộc Việt Nam để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng du khách mỗi khi đến thăm, đó chính là nền ẩm thực đặc sắc. Nền ẩm thực Việt Nam nổi tiếng không phải bởi những món “sơn hào hải vị”, những món ăn được làm bằng những nguyên liệu cao cấp. Đặc sắc trong ẩm thực Việt Nam chính từ những thứ bình dị, những loại nguyên liệu dân giã, đời thường. Một trong những món ăn trong bữa ăn hàng ngày của người dân Việt, đó chính là món canh chua cá lóc. Món canh chua cá lóc tuy vô cùng bình dị nhưng lại mang cái độc đáo, một vị ngon khác lạ mà những món ăn cầu kì, đắt tiền khác khó có thể sánh được.

Món canh chua cá lóc là một món ăn phổ biến, quen thuộc mà nếu là người Việt Nam thì đều đã từng được thưởng thức. Món canh chua cá lóc được chế biến khá đơn giản với những nguyên liệu dễ tìm trong cuộc sống nhưng lại đòi hỏi sự kì công, tay nghề của người nấu, bởi chỉ có thế mới mang lại món canh chua cá lóc ngon đúng vị của dân tộc. Canh chua cá lóc là món ăn thường thấy trong bữa cơm hàng ngày của người Việt, đặc biệt trong những ngày hè nóng bức, một bát canh chua cá lóc có thể thổi bay cái nóng ngày hè, mang lại cảm giác ngon miệng, thoải mái khi dùng cơm. Món canh chua cá lóc phổ biến ở khắp các vùng miền ở Việt Nam, từ Bắc chí Nam đều quen thuộc với hương vị này.

Tuy nhiên, do đặc điểm về ẩm thực, cũng như khẩu vị của mỗi miền mà món canh chua cá lóc được chế biến với những cách thức khác nhau, nguyên liệu khác nhau, cách nêm thêm những gia vị cũng tùy thuộc vào sở thích ăn uống của mỗi người. Canh chua cá lóc được chế biến với những nguyên liệu như: cá lóc hay ở miền Bắc còn được gọi là cá quả hay cá chuối. Đây là loại nguyên liệu quan trọng nhất của món canh chua, làm nên hương vị của món ăn, ngoài ra còn có các nguyên liệu khác quan trọng không kém như: cà chua, me, hành lá, rau mùi hay còn gọi là ngò gai, gừng, tỏi để ướp cá. Các gia vị như: muối, hạt nêm, bột ngọt, nước mắm. Để nấu thành công món canh chua cá lóc, ta cũng phải làm các bước sau. Bước đầu tiên là làm sạch và ướp cá. Để cá có thể ngấm gia vị và khử đi mùi tanh vốn có của cá, người ta thường cho cá vào ướp với gừng, tỏi, muối, hạt nêm và bột ngọt. Cá có thể được cắt thành từng khoanh nhỏ hoặc để cả con, tùy theo sở thích của mỗi gia đình.

Bước thứ hai là cho mỡ lên bếp, phi hành cho vàng thơm thì cho thêm những quả cà chua thái lát để tăng thêm vị chua cũng như tạo cho bát canh chua cá lóc có màu sắc bắt mắt. Sau khi cho cà chua, ta đảo đều tay, sau đó cho thêm nước dùng, lượng nước cũng tùy thuộc vào sở thích của mỗi người. Sau khi nước dùng đã sôi, ta cho cá đã ướp vào nồi đun cùng, cho thêm những quả me hoặc những quả khế chua để tạo vị chua cho bát canh chua, ở nhiều nơi, món canh chua cá lóc còn được chế biến bởi những ngọn mùng. Tuy nhiên, khi chế biến những ngọn mùng phải hết sức lưu ý, vì nếu không làm cẩn thận thì nó sẽ gây ngứa cho người ăn. Sau khi cho cá vào, ta đun từ bẩy đến mười phút cho cá chín. Lưu ý khi đun cá, ta dùng lửa nhỏ, vì nó sẽ tạo cho món cá vị ngọt thơm hơn.

Khi cá đã chín, ta tắt bếp và cho vào nồi cá những lát hành tươi và những nhánh rau mùi đã chuẩn bị từ ban đầu. Như vậy, chỉ với những thao tác đơn giản, món canh cá lóc thơm ngon đã hoàn thành. Ta có thể bày ra bát và trang trí trên đó những nhánh ngò gai để tăng thêm tính thẩm mĩ cho món ăn. Món canh chua cá lóc có vị thơm bùi của cá lóc, vị chua dịu của nước dùng, mùi thơm của hành tươi và rau mùi làm cho món canh cá lóc trở nên vô cùng tươi ngon, nó có thể hấp dẫn vị giác của mọi người, ngay cả những người khó tính nhất cũng bị nó chinh phục. Một món canh cá lóc thành công không chỉ có hương vị mà còn nằm ở màu sắc đặc trưng của món ăn này. Nước dùng của món canh chua phải có sắc hồng của những quả cà chua, nó làm cho món ăn trở nên bắt mắt hơn, tươi ngon hơn.

Canh chua cá lóc cũng rất dễ kết hợp với những món ăn khác. Nó có thể được ăn cùng với những món mặn như: trứng, thịt, đậu…. Ngày hè nóng bức, món canh chua cá lóc được ăn với bát cơm trắng thơm dẻo, một món ăn mặn, đặc biệt là món thịt kho tàu thì bữa ăn của gia đình trở nên ngon miệng khác hẳn ngày thường. Những người trong gia đình cùng nhau thưởng thức và chia sẻ với nhau những câu chuyện trong ngày quả là rất tuyệt, nó làm cho không khí gia đình trở lên vui tươi, đầm ấm và gắn kết hơn. Món canh chua cá lóc là một món ăn rất dân giã, bình dị, dễ dàng chế biến và cũng dễ kết hợp với các món ăn khác. Vì vậy nó thường là món ăn mà các gia đình lựa chọn cho mâm cơm của gia đình mình. Nó ngon bởi chính vẻ bình dị của nó, hấp dẫn vị giác bằng chính cái dân giã của nó.

Món canh chua cá lóc là một món ăn mang đậm hồn quê, mang đậm phong cách ẩm thực của người dân Việt Nam. Chỉ cần nghe đến tên canh chua cá lóc, ta đã liên tưởng ngay đến một món ăn dân giã, đời thường. Liên tưởng ngay đến không khí bình dị mà ấm áp nơi làng quê Việt Nam, gợi nhắc đến những bữa cơm gia đình đầm ấm, xum vầy bên nồi cơm của mẹ, đến hình ảnh vui vẻ, hạnh phúc trên khuôn mặt của mỗi thành viên trong gia đình. Cái không khí ấy, hương vị ấy gợi nhắc mỗi người con xa quê nhớ về nơi “chôn nhau cắt rốn” của mình, nơi mình sinh ra, lớn lên.

Tuy ở mỗi vùng miền, món canh chua cá lóc lại được chế biến với những nguyên liệu khác nhau, mang hương vị, màu sắc khác nhau. Song, cái nét chung nhất của món ăn này chính là cái vị chua rất thanh, không hề gắt, mang lại một cảm giác rất dễ chịu, thoải mái cho người thưởng thức. Cá vẫn giữ nguyên được hương vị thơm ngon của thịt cá, không tanh như những món cá thông thường, và dù ở vùng miền nào thì món canh chua cá lóc cũng không thể thiếu được vị rau mùi, hay còn được gọi với một cái tên khác đó chính là ngò gai. Đảm bảo được những yếu tố này thì ta đã có được một món canh cá lóc thành công.

Như vậy, món canh chua cá lóc là một món ăn ngon, một món ăn tiêu biểu và phổ biến trong mâm cơm của người Việt Nam. Nguyên liệu dùng để nấu canh chua cá lóc có thể dễ dàng tìm kiếm trong đời sống, cách nấu cũng rất đơn giản. Vì vậy, sự xuất hiện của món canh chua cá lóc đã trở lên vô cùng phổ biến trong thực đơn hàng ngày của người Việt Nam. Ngày nay, tuy xuất hiện rất nhiều những món ăn mới, ngon hơn, tiện lợi hơn. Song không có món ăn nào có thể thay thế món canh chua cá lóc, bởi nó đã trở thành món ăn mang bản sắc của dân tộc, của mỗi gia đình.

Từ khóa tìm kiếm

thuyết minh về món canh chua cá lóc

thuyet minh mon canh chua ca loc

thuyet minh ve mon an canh chua ca loc

Rèn Luyện Kĩ Năng Làm Văn Thuyết Minh (Phụ Đạo Yếu Kém )

RÈN LUYỆN KĨ NĂNG VIẾT BÀI VĂN THUYẾT MINH1.Cách giới thiệu một phong tục truyền thốnga.Yêu cầu của đề bài – Về nội dung : Đề bài yêu cầu thuyết minh về một phong tục truyền thống của dân tộc. Bài viết cần trình bày mieu tả được đặc điểm của phong tục, vẻ đẹp và ý nghĩa của phong tục trong đời sống của dân tộc. – Về phương pháp làm bài : Có thể kết hợp phương thức tự sự, miêu tả và các phương pháp phân tích, so sánh để viết bài sinh động, hấp dẫn.b. Gợi ý lập dàn bài Mở bài -Giới thiệu khái quát về nội dung ( Đó là phong tục gì ? Của dân tộc ?)

Thân bàiGiới thiệu xuất xứ, nguồn gốc, lí do hình thành phong tục.Giới thiệu cụ thể về đặc điểm, tính chất, diễn biến của phong tục.Giới thiệu về vị trí, ý nghĩa của phong tục trong đời sống của địa phương, dân tộc.Kết bài Nêu cảm nhận của cá nhân về phong tục.2.Thuyết minh về một món ăn dân tộc ngày Tết. a. Yêu cầu của đề bài – Về nội dung : Khi trình bày về món ăn dân tộc trong ngày tế Tết, cần nêu rõ : + Món ăn gì ? + Cần những nguyên liệu nào ? + Cách nấu như thế nào ? + Yêu cầu sản phẩm ra sao ? + Ý nghĩa của món ăn trng ngày Tết,…-Về cách làm bài : + Cách phương pháp thuyết minh có thể sử dụng là : định nghĩa, liệt kê, so sánh,… + Cần vận dụng hợp lí các phương thức miêu tả, biểu cảmb. Gợi ý lập dàn bài Mở bài – Giới thiệu khái quát về món ăn ngày Tết.Thân bài -Giới thiệu về xuất xứ của món ăn. – Giới thiệu về các món ăn : yêu cầu về nguyên liệu, cách chế biến, yêu cầu sản phẩm.-Giới thiệu về vẻ đẹp, ý nghĩa của món ăn trong ngày Tết.Kết bài -Nêu cảm nhận của cá nhân về món ăn ngày Tết.Bài viết tham khảoĐiểm hẹn lại lên, cứ vào những tháng gần Tết, các bà các cô ở khu chợ Gò nô nức, râm ran làm mứt me bỏ sỉ cho các cửa hàng bán mứt Tết. Có thể nói, ngoài những phong bánh cốm, bánh in, những đòn bánh tét thì mứt me là hương vị Tết truyền thống của người Phan Thiết.Tại khu chợ Gò này, lúc đầu chỉ có hai gia đình làm nghề mứt me là gia đình cụ Hai Siêu và cụ Ba Huỳnh. Mứt me hai cụ làm không những bỏ mối ở Phan Thiết mà còn bỏ ở Sài Gòn. Vào những ngày đó, trước hiên nhà đông đảo người bóc vỏ me để chuẩn bị rim mứt. Từ đó nghề làm mứt me được truyền đi khắp xóm và được duy trì cho đến ngày nay.Mứt me chua chua ngọt ngọt, cái hương vị vừa đưa tới đầu lưỡi đã đánh thức tất cả các giác quan. Bởi vậy, ai đã thưởng thức trái đầu tiên đều muốn ăn tiếp trái thứ hai, thứ ba…Cách chế biến mứt me cũng không cầu kỳ. Người làm mứt me có kinh nghiệm sẽ chọn trái me già nhưng vỏ hẵng còn xanh, trái thẳng, dài và dày cơm. Đem me ngâm nước muối để dễ tách vỏ, sau đó ngâm tiếp với nước muối trong hai ngày để loại bỏ chất chua. Dùng mũi dao nhọn xé một đường dọc sống lưng me, tách từng lớp vỏ theo đường trôn ốc. Nhẹ nhàng bổ dọc bụng sao cho khi lấy hạt không làm trái me gãy đoạn. Ngâm nước muối lần nữa để me trắng đều. Xăm từ trên xuống khắp hai mặt, lần lượt hết phần me đã chọn. Đun nước nóng, xả 4 – 5 lượt. Khi nào nếm bớt chua, vớt me vảy ráo nước, tiến hành rim. Thường thì cứ 3kg me tươi bóc vỏ thì dùng 1,5kg đường cát để rim. Đường thì chọn loại có mật cao, hạt đường phải sáng ánh thì màu me rim càng đẹp, vị ngọt càng thanh. Trộn me và đường để một ngày đêm cho thấm. Khi nước đường ra thì lấy nước đó thắng cho sên lại, sau đó đổ lại vào me rồi bắc lên rim với lửa nhỏ. Đây là công đoạn quan trọng nhất, đòi hỏi phải thường xuyên ngồi bên bếp canh lửa, múc nước đường đổ liên tục lên trái, làm cho trái me chín trước khi đường ngấm, để không bị lại đường. Khi me thấm và có độ bóng, đem me ra phơi nắng cho ráo. Mứt me đạt chất lượng là bên ngoài mứt bóng mướt, dẻo, có độ chua ngọt vừa phải và để được lâu ngày. Các công đoạn làm mứt me không khó nhưng đòi hỏi sự khéo léo và kiên nhẫn của người làm.Tết đến, có rất nhiều thứ mứt, nhưng với vị chua ngọt hấp dẫn, món mứt me luôn là lựa chọn của các mẹ, các chị trong mâm bánh mứt đãi khách ngày Tết. Có đĩa mứt me trong nhà ngày Tết, ta dường như thấy được hương vị quê nhà ấm áp. Và phẩm vật ngày xuân này không chỉ là món truyền thống của người Phan Thiết mà còn là sự lựa chọn của người Việt cả nước. ( Thanh Vũ, nguồn : dulichBinhThuan.com.)3.Thuyết minh về một tác phẩm văn học mà anh ( chị ) yêu thích. a.Yêu cầu của đề – Về nội dung: đề văn yêu cầu học sinh trình bày những tri thức khách quan mà anh ( chị ) yêu thích. Bài viết cần làm tường minh tri thức về : + Tác phẩm, thể loại, tác giả, hoàn cảnh ra đời, xuất xứ, giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật, giá trị đóng góp của tác phẩm VH đối với sự nghiệp sáng tác của tác giả, với nền VH dân tộc; lí do yêu thích tác phẩm được người đọc công nhận.Về cách thức làm bài : +Bài viết yêu cầu tạo lập văn bản thuyết minh, nội dung bài viết là những tri thức khách quan, khoa học về kiến thức một tác phẩm văn học người thuyết minh yêu thích. + Khi trình bày các tri thức, thông tin khách quan về tác phẩm, để tránh lạc sang kiểu bài nghị luận văn học, hs phải biết sử dụng kết hợp các yếu tố nghị luận, biểu cảm, miêu tả. + Kết cấu bài văn nên đi theo trình tự lô gíc hoặc hỗn hợp. + Linh hoạt vận dụng phương pháp thuyết minh và cách kết cấu, cách dùng ngôn ngữ và diễn đạt để bài văn sinh động, hấp dẫn.2. Gợi ý lập dàn bài Mở bài – Giới thiệu về tác phẩm vh bản thân yêu thích. – Lí do yêu thích.

Thân bài Trình bày về tác phẩm vh ở các khía cạnh :Vài nét về tác giả: năm sinh- mất, thời đại, quê hương-gia đình, sự nghiệp sáng tác, đặc điểm phong cách và quan niệm văn chương ( nếu có )Hoàn cảnh, xuất xứ, nhan đề tác phẩm văn học.Đặc sắc nội dung và hình thức nghệ thuật.Vị trí của tác phẩm đối với tác giả và nền văn học.Giá trị tác động của tác phẩm.Kết bài – Khái quát vẻ đẹp của tác phẩm văn học.Nêu cảm nghĩ về tác phẩm văn học. Bài tham khảo về Ải Chi LăngVới quy mô hoành tráng, đồ sộ, địa thế hiểm yếu, Ải Chi Lăng được coi là bức tường thành của Thăng Long xưa kia trước những cuộc viễn chinh của quân xâm lược phương Bắc.Ải Chi Lăng – vùng đất địa linh nhân kiệt và rực rỡ chiến công ở miền biên ải phía Bắc của Tổ quốc. Với địa thế hiểm yếu, ải Chi Lăng được coi là bức tường thành của kinh thành Thăng Long trong việc chặn đứng các cuộc viễn chinh khét tiếng từ phương Bắc tràn sang. Chi Lăng là ải có quy mô hoành tráng và đồ sộ chạy dài gần 20km, rộng 3km nối liền hai huyện Chi Lăng và Hữu Lũng của tỉnh Lạng Sơn. Ải Chi Lăng là thắng cảnh được bao bọc bởi dãy núi đá Kai Kinh ở phía tây nằm bên dòng sông Thương và phía đông là dãy núi Bảo Ðài-Thái Hoà. Trảikhắp thung lũng gần đó và án ngữ ven đường cái quan còn có nhiều ngọn núi thấp như: Kỳ Lân, Mã Yên, Hàm Quỷ, Phượng Hoàng, Nà Nông, Nà Sản… Ở hai đầu thung lũng, nơi hai dãy núi đá phía Tây và núi đất phía Đông khép lại gần nhau là lũy Ải Quỷ phía Bắc và núi Ngõ Thề phía Nam tạo thành thế hiểm. Lịch sử oai hùng của Chi Lăng gắn liền với những hoạt động của các nhà quân sự thiên tài như Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn và những thủ lĩnh tài năng của xứ Lạng: Phò mã Thân Cảnh Phúc, Thế Lộc, Hoàng Ðại Huề…

Ngược dòng lịch sử xa xăm, con người còn để lại ở Chi Lăng những vết tích của nền văn hóa Bắc Sơn – Mai Pha nổi tiếng với những hang động đẹp như trong huyền thoại và những rìu đá, mảnh gốm… minh chứng cho những giai đoạn sơ sử, tiền sử của con người sinh sống ở nước ta.

Vào những năm trước và sau công nguyên, ải Chi Lăng đã gắn liền với sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc, đấu tranh chống các triều đại phong kiến Trung Quốc xâm lược. Thế kỷ 14, tể tướng nhà Trần là Phạm Sư Mạnh khi cưỡi ngựa qua biên ải đã hạ một câu thơ bất hủ: “Chi Lăng ải hiểm tựa lên trời”.Năm 1077, phụ quốc Thái uý Lý Thường Kiệt đi thân hành về Chi Lăng gặp phò mã Thân Cảnh Phúc bàn bạc việc binh. Với chiến tuyến Quyết Lý và Giáp Khẩu (Chi Lăng), Thân Cảnh Phúc và quân dân xứ Lạng đã góp sức đánh tan bọn xâm lược Tống lần thứ hai.

Thế kỷ 13, cả thế giới kinh hoàng trước vó ngựa của đế quốc Nguyên Mông. Tuy nhiên, năm 1284, khi cánh quân Nguyên qua ải Chi Lăng đã bị quân ta chặn đánh kịch liệt và tướng Nguyên là Nghê Nhuận bị giết chết tại chỗ. Chính Hưng Ðạo Ðại vương Trần Quốc Tuấn đã thể hiện thiên tài quân sự của ông ở đây: bằng hố bẫy ngựa, phục binh của ta từ dưới hố dùng mã tấu phạt đứt chân ngựa, tách bọn Nguyên Mông thiện chiến ra khỏi ngựa mà tiêu diệt chúng…

Thế kỷ 15, ải Chi Lăng lại ghi vào lịch sử Việt Nam một trang chói lọi, đó là chiến thắng 1427, giết chết Nguyên soái An Viễn hầu Liễu Thăng – chủ tướng của giặc cùng 1 vạn quân Minh, góp phần quyết định kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống quân Minh, giải phóng đất nước. Thế kỷ 18, dưới thời Hoàng đế Quang Trung – một nhà quân sự thiên tài, Chi Lăng lại một lần nữa cùng quân dân cả nước đánh tan tành quân xâm lược nhà Thanh… Vào các thế kỷ 19 và 20, ải Chi Lăng lại chứng kiến những chiến công đánh Pháp, đuổi Nhật của quân dân ta.

Ải Chi Lăng đã được nhiều quan khách quốc tế, các nguyên thủ quốc gia, các tướng lĩnh, nhà sử học, khách du lịch… đến thăm với một sự trân trọng đặc biệt. Slôvắcxốc – nhà dân tộc học nổi tiếng Tiệp Khắc trước đây trong chuyến đi thăm ải Chi Lăng đã từng đánh giá: “Có lẽ đây là chiến luỹ hình thang độc nhất trên thế giới, nó thể hiện đầu óc thông minh và tài trí quân sự tuyệt vời của một dân tộc luôn phải chống trả với một đội quân xâm lược mạnh hơn mình gấp trăm lần trong quá trình lâu dài dựng nước và giữ nước. Thể hiện một tầm nhìn chiến lược nổi tiếng: “Lấy ít địch nhiều, lấy yếu thắng mạnh”.

4.Xây dựng một dàn ý cho bài văn thuyết minh giới thiệu một tấm gương học tốt.a.Mở bài -Giới thiệu chung về tấm gương học tốt ( là ai ? ở đâu ?…)b.Thân bài – Hoàn cảnh gia đình, môi trường học tập,… – Quá trình phấn đấu trong học tập. -Những kết quả học tập tốt. …..c.Kết bài – Khẳng định về tấm gương học tập. -Suy nghĩ về bài học cho bản thân và cho mọi người.

-VỀ NGUYÊN LIỆUGồm có Lá dong, Lạt giang, gạo nếp, Đỗ xanh( đâu xanh), thịt lợn, hạt tiêu,hành củ, muối và các gia vị khác.-VỀ CÁCH LÀM ( quy trình thực hiện ) [QUAN TRỌNG NHẤT]Mỗi gia đình gói bánh chưng theo cách dùng khuôn cho ngày Tết. Thông thường có hai cách gói bánh chưng: gói bằng tay không hoặc gói theo khuôn hình vuông khoảng 20 cm x 20 cm x 7cm sẵn có. Khuôn thường làm bằng gỗ.Cách gói tay không thông thường như sau: Rải lạt xuống mâm tròn tạo hình chữ thập. Lá dong rải lên trên lạt, chú ý phải quay mặt dưới lá ra phía ngoài và mặt xanh hơn (mặt trên) vào trong (để sau này, khi bánh chưng chín sẽ có màu xanh mướt). Lượt đầu: 2 lá to rải nằm chồng 1/2 theo chiều dài lá lên nhau. Lượt trên: 2 lá rải như lượt đầu nhưng vuông góc với lượt đầu. Gạo nếp, xúc 1 bát đầy đổ vào tâm của lá dong, dùng tay gạt đều, tạo hình vuông mỗi cạnh 20 cm. Lấy 1 nắm đỗ xanh bóp nhẹ và rải đều vào giữa vuông gạo đến gần hết bìa gạo. Thịt lợn, lấy 1, 2 miếng rải đều vào giữa bánh. Lấy tiếp 1 nắm đỗ xanh nữa bóp nhẹ rải đều phủ lên trên thịt. Xúc 1 bát gạo nếp đổ lên trên và phủ khỏa đều tạo mặt phẳng. Gấp đồng thời 2 lá dong lớp trên vào, vừa gấp vừa vỗ nhẹ để tạo hình khối vuông. Gấp tiếp đồng thời 2 lá dong lớp dưới vào như lớp trên, vừa gấp vừa lèn chặt nhẹ tay. Dùng lạt buộc xoắn lại tạo thành hình chữ thập. 2 bánh chưng buộc úp vào nhau thành một cặpCách gói bánh có khuôn thì bánh đều nhau hơn và chặt hơn do được vỗ đều gạo, nén chặt, còn gói không khuôn thì bánh được gói nhanh hơn do đỡ mất công đo cắt lá theo kích thước khuôn.-Luộc bánhLấy xoong to, dầy với dung tích trên 100 lít tùy theo số lượng bánh đã được gói. Rải cuộng lá dong thừa xuống dưới kín đáy nhằm mục đích tránh cho bánh bị cháy. Xếp lần lượt từng lớp bánh lên đến đầy xoong và xen kẽ các cuộng lá thừa cho kín nồi. Đổ ngập nước nồi và đậy vung đun. Người nấu bánh thường canh giờ tính từ thời điểm nước sôi trong nồi và duy trì nước sôi liên tục trong 10 đến 12 giờ. Trong quá trình đun, thỉnh thoảng bổ sung thêm nước nóng để đảm bảo nước luôn ngập bánh (người thực hiện thường đặt sẵn ấm nước bên cạnh bếp đun bánh để tận dụng nhiệt lượng). Những chiếc bánh ở trên có thể được lật giở để giúp bánh chín đều hơn, tránh tình trạng bị lại gạo sau này.Ép bánh và bảo quảnSau khi luộc xong, vớt bánh ra rửa sạch lá trong nước lạnh cho hết nhựa, để ráo. Xếp bánh thành nhiều lớp, dùng vật nặng đè lên để ép bánh cho ra nước, chắc mịn (tục gọi là để cho rền bánh) và phẳng đều trong vài giờ. Hoàn tất công đoạn ép bánh, bánh được treo lên chỗ khô ráo trong nhà để bảo quản.

-VỀ CÁCH DÙNG Trên bàn thờ ngày tết không thể thiếu bánh chưng và bánh thường được bày theo cặp. Nhiều người cầu kỳ còn bóc bỏ lớp lá bên ngoài của bánh và gói lại bằng lá tươi mới, sau đó buộc lạt màu đỏ trước khi đặt lên bàn thờ.Trên mâm cỗ ngày Tết, bánh chưng vuông thường được cắt chéo bằng lạt, bánh chưng dài thường cắt lát ngang, gọi là “đồng bánh”, để ăn cùng với dưa hành, nước mắm rắc chút bột tiêu. Ra sau tết, bánh có thể bị lại gạo, bị cứng, khi đó người ta thường đem rán vàng trong chảo mỡ và ăn kèm với dưa góp.-BÁNH CHƯNG TRONG THI VĂN Trong câu đối phổ biến về sản vật ngày Tết, ta thấy sự có mặt của bánh chưng như một giá trị vật chất và tinh thần không thể thiếu:Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏCây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh.

-NÊU CẢM NGHĨ VÀ Ý NGHĨA CỦA BÁNH CHƯNG ( Kết Bài) tự làm

Thuyết minh về món thịt lợn quay Lạng SơnXứ Lạng có nhiều phong vị. Một trong số đó là món lợn quay mà ai đã ăn một lần thì chẳng dễ nào quên được.